Trong số này
Đơn vị Tài trợ Bản tin
Click (+) để xem chi tiết Bản tin
Trân trọng cảm ơn các Quý Đối tác, Quý Thành viên đã đóng góp tin bài.
Bản tin thuế tháng 2/2021 của CFO Việt Nam cập nhật những điểm chính sau đây:
- Hướng dẫn về việc quyết toán thuế TNCN năm 2020
Ngày 28/1/2021, Tổng cục Thuế hướng dẫn quyết toán thuế TNCN năm 2021 như sau:
– Mức giảm trừ gia cảnh từ ngày 1/1/2020
+ Mức giảm trừ cho bản thân người nộp thuế tăng từ 9 triệu đồng/tháng lên mức 11 triệu đồng/tháng
+ Mức giảm trừ cho người phụ thuộc tăng từ 3,6 triệu đồng/người/tháng lên mức 4,4 triệu đồng/người/tháng.
Với mức giảm trừ gia cảnh mới này, người nộp thuế sẽ được tính từ thời điểm ngày 01/01/2020 khi cá nhân thực hiện quyết toán thuế thu nhập cá nhân.
– Các trường hợp phải quyết toán thuế thu nhập cá nhân
Theo quy định thì cá nhân phải quyết toán thuế thu nhập cá nhân (QTT TNCN) trong các trường hợp: có số thuế phải nộp thêm hoặc có số thuế nộp thừa và có đề nghị hoàn thuế.
Để cắt giảm thủ tục hành chính cho người nộp thuế và giảm áp lực xử lý hồ sơ quyết toán cho cơ quan thuế, theo quy định tại Luật Quản lý thuế số 38/2019/QH13 và Nghị định số 126/2020/NĐ-CP quy định miễn thuế thu nhập cá nhân phải nộp thêm đối với cá nhân có số thuế phải nộp thêm sau quyết toán của từng năm từ 50.000 đồng trở xuống (kể cả trường hợp ủy quyền quyết toán thuế).
Như vậy, các cá nhân này sẽ không phải nộp thêm thuế cũng như không phải thực hiện việc QTT TNCN. Cá nhân thực hiện việc quyết toán thuế TNCN theo hình thức tự quyết toán hoặc ủy quyền quyết toán cho tổ chức trả thu nhập theo quy định.
– Thời hạn nộp hồ sơ khai quyết toán thuế
+ Đối với tổ chức trả thu nhập, thời hạn hộp hồ sơ QTT TNCN chậm nhất là ngày cuối cùng của tháng thứ ba kể từ ngày kết thúc năm dương lịch hoặc năm tài chính.
+ Đối với cá nhân, kể từ kỳ QTT TNCN năm 2020, thời hạn nộp hồ sơ QTT đã được kéo dài trên 01 tháng so với quy định trước đây nhằm mục đích tạo điều kiện thuận lợi cho người nộp thuế.
– Về khai quyết toán thuế thu nhập cá nhân
+ Thứ nhất, đối với việc khai QTT TNCN, có thể qua ứng dụng hỗ trợ kê khai thuế (HTKK) phiên bản mới nhất và cung cấp miễn phí cho người nộp thuế thông qua website https://thuedientu.gdt.gov.vn.
Đối với trường hợp cá nhân trực tiếp quyết toán thuế theo phương thức điện tử thì ngoài việc sử dụng ứng dụng hỗ trợ khai thuế nêu trên thì người nộp thuế có thể khai thuế trực tiếp trên Cổng TTĐT Tổng cục Thuế.
+ Thứ hai, để nộp hồ sơ khai thuế theo phương thức điện tử, người nộp thuế cần đăng ký Tài khoản giao dịch thuế điện tử với cơ quan thuế. Đây là một tiện ích mà cơ quan Thuế cung cấp cho người nộp thuế từ kỳ QTT TNCN năm 2020 nhằm mục đích cắt giảm thủ tục hành chính và tạo điều kiện thuận lợi cho người nộp thuế không phải đến cơ quan thuế để thực hiện nghĩa vụ quyết toán thuế TNCN như thời gian trước đây.
– Nộp tiền thuế thu nhập cá nhân
Song song với việc hỗ trợ cá nhân khai và nộp hồ sơ khai thuế bằng phương thức điện tử, ngành Thuế đã và đang tiếp tục đẩy mạnh việc phối hợp với các ngân hàng thương mại xây dựng các tính năng trên nền tảng ứng dụng như IntenetBanking, MobileBanking,… từ đó hỗ trợ tối đa người nộp thuế thực hiện các giao dịch nộp thuế.
– Xác định nơi nộp hồ sơ khai quyết toán thuế
Để xác định được đúng nơi nộp hồ sơ khai quyết toán thuế thu nhập cá nhân, tránh việc phải đi lại nhiều lần do chưa xác định đúng cơ quan thuế quyết toán, những năm qua ngành Thuế đã hỗ trợ cho người nộp thuế việc xác định cơ quan thuế quyết toán nếu người nộp thuế thực hiện việc khai thuế trên Cổng TTĐT Tổng cục Thuế (website: https://thuedientu.gdt.gov.vn).
Từ kỳ QTT TNCN năm 2020, khi khai quyết toán thuế trên Cổng TTĐT Tổng cục Thuế, người nộp thuế ngoài việc được hỗ trợ chính xác cơ quan thuế quyết toán, thì còn được hỗ trợ nộp hồ sơ khai thuế điện tử (bao gồm tờ khai và các tài liệu kèm theo) đối với cá nhân đã đăng ký tài khoản giao dịch thuế điện tử.
Trường hợp cá nhân chưa có tài khoản giao dịch thuế điện tử thì cá nhân chỉ có thể gửi Tờ khai và phải in tờ khai đã khai trên Cổng TTĐT Tổng cục Thuế kèm theo các tài liệu theo quy định để nộp hồ sơ giấy trực tiếp đến cơ quan thuế thông qua đường bưu điện hoặc trực tiếp đến bộ phận một cửa của cơ quan thuế.
Trường hợp cá nhân không thực hiện việc khai thuế trên Cổng TTĐT Tổng cục Thuế thì cá nhân tự xác định cơ quan thuế quyết toán theo hướng dẫn tại Khoản 8 Điều 11 Nghị định số 126/2020/NĐ-CP hoặc liên hệ với cơ quan thuế để được hỗ trợ, giải đáp.
Hướng dẫn tại website của Tổng cục Thuế theo địa chỉ: tại đây
- Hướng dẫn về việc người nộp thuế xin xác nhận số thuế đã nộp Ngân sách nhà nước
Theo quy định tại Khoản 3 Điều 18 Thông tư số 84/2016/TT-BTC, trường hợp người nộp thuế có nhu cầu cần xác nhận số thuế đã nộp Ngân sách nhà nước, người nộp thuế lập giấy đề nghị xác nhận số đã nộp (mẫu C1-10/NS TT84/2016) gửi Cơ quan thuế. Trong thời hạn 03 ngày làm việc, Cơ quan thuế thực hiện cấp giấy xác nhận cho người nộp thuế trên cơ sở dữ liệu thu nộp do Kho bạc Nhà nước chuyển sang.
Hướng dẫn tại Công văn số 308/TCT-DNNCN của Tổng cục Thuế ngày 29/1/2021.
- Hướng dẫn về chính sách thuế đối với quà tặng là gói bảo hiểm nhân thọ
Trường hợp Công ty mua bảo hiểm nhân thọ cho khách hàng không phải là người lao động của Công ty để làm quà tặng theo chương trình khuyến mại đã đăng ký với Sở Công thương địa phương. Tuy nhiên, Hợp đồng Bảo hiểm là giao dịch giữa Khách hàng và bên công ty bảo hiểm, Công ty là người đứng ra trả phí năm đầu tiên nhưng hóa đơn lại xuất mang tên khách hàng thông qua Hợp đồng Bảo hiểm giữa khách hàng và Công ty Bảo hiểm thì khoản chi này không được tính vào chi phí được trừ khi xác định thu nhập chịu thuế TNDN.
Căn cứ quy định nêu trên, trường hợp khách hàng được Công ty đóng phí gói bảo hiểm cho năm đầu tiên thì khoản phí gói bảo hiểm này không thuộc điều chỉnh của Luật Thuế TNCN về thu nhập chịu thuế từ quà tặng.
Hướng dẫn tại Công văn số 153/TCT-CS của Tổng cục Thuế ngày 14/1/2021.
- Hướng dẫn về chính sách thuế đối với khoản chi phí hưu trí doanh nghiệp trích nộp cho nhân viên được công ty mẹ ở nước phái cử sang Việt Nam làm việc
– Đối với khoản tiền do người sử dụng lao động (NSDLĐ) đóng góp vào Quỹ hưu trí tự nguyện cho người lao động (NLĐ) được xác định là thu nhập (TN) chịu thuế TNCN từ tiền lương, tiền công của cá nhân theo Điều 2 Thông tư số 111/2013/TT-BTC (sửa đổi, bổ sung tại Điều 11 Thông tư số 92/2015/TT-BTC). Mức đóng vào Quỹ hưu trí tự nguyện được trừ ra khỏi thu nhập chịu thuế TNCN theo hướng dẫn tại Điều 15 Thông tư số 92/2015/TT-BTC.
– Trường hợp Công ty mẹ ở nước ngoài cử nhân viên sang Việt Nam (VN) làm việc, trong văn bản thỏa thuận giữa Công ty mẹ ở nước ngoài và Công ty tại VN có quy định Công ty tại VN phải chi trả các chi phí đóng góp vào Quỹ hưu trí tự nguyện cho các nhân viên này trong thời gian công tác ở VN thì khoản chi trả nêu trên được tính vào chi phí được trừ khi xác định TN chịu thuế TNDN nếu đáp ứng các điều kiện tại Khoản 1 Điều 4 và không thuộc Khoản 2 Điều 4 Thông tư số 96/2015/TT-BTC và các văn bản sửa đổi, bổ sung (nếu có).
– Trường hợp Công ty mẹ ở nước ngoài phát sinh TN từ thỏa thuận phái cử nhân viên sang VN làm việc thì TN mà Công ty mẹ nhận được phải kê khai, nộp thuế theo hướng dẫn tại Thông tư số 103/2014/TT-BTC. Trường hợp Công ty mẹ (Nhà thầu nước ngoài) không đáp ứng một trong các điều kiện nêu tại Điều 8 Mục 2 Chương II Thông tư số 103/2014/TT-BTC thì Công ty tại VN có trách nhiệm nộp thay thuế cho Nhà thầu nước ngoài theo hướng dẫn tại Điều 11 Thông tư số 103/2014/TT-BTC.
Hướng dẫn tại Công văn số 3619/CTHN-TTHT của Cục Thuế TP. Hà Nội ngày 28/1/2021.
- Hướng dẫn chính sách thuế về việc áp dụng biện pháp cưỡng chế ngừng sử dụng hóa đơn
Trường hợp Công ty đang trong thời gian áp dụng biện pháp cưỡng chế ngừng sử dụng hóa đơn mà đơn vị cần sử dụng hóa đơn để hoạt động sản xuất kinh doanh thì:
– Nếu Công ty nộp đủ số tiền thuế nợ bị cưỡng chế vào ngân sách Nhà nước (NSNN) thì Cơ quan thuế (CQT) ban hành quyết định chấm dứt hiệu lực của quyết định cưỡng chế kể từ thời điểm đơn vị nộp đủ số tiền thuế nợ vào NSNN.
– Nếu Công ty có văn bản đề nghị sử dụng hóa đơn để có nguồn thanh toán tiền lương công nhân, thanh toán các khoản chi phí đảm bảo sản xuất kinh doanh được liên tục thì CQT tiếp tục cho Người nộp thuế (NNT) sử dụng hóa đơn theo từng lần phát sinh với điều kiện NNT phải nộp ngay ít nhất 18% doanh thu trên hóa đơn được sử dụng vào NSNN theo Điểm d Khoản 4 Điều 34 Nghị định số 126/2020/NĐ-CP.
Hướng dẫn tại Công văn số 5314/CTHN-TTHT của Cục Thuế TP. Hà Nội ngày 19/2/2021.
- Hướng dẫn ưu đãi thuế theo địa bàn đối với lãi tiền gửi có kỳ hạn
Trường hợp tiền gửi có kỳ hạn của Công ty được gửi tại Ngân hàng Shinhan Việt Nam – Chi nhánh Bắc Ninh – có địa chỉ tại phường Võ Cường, TP. Bắc Ninh không thuộc địa bàn được hưởng ưu đãi thuế, do vậy thu nhập từ lãi tiền gửi có kỳ hạn của Công ty tại ngân hàng này và các ngân hàng nằm ngoài địa bàn ưu đãi thuế không được hưởng ưu đãi thuế TNDN.
Hướng dẫn tại Công văn số 205/CTBNI-TTHT của Cục Thuế tỉnh Bắc Ninh ngày 9/2/2021.
- Hướng dẫn ưu đãi thuế theo địa bàn đối với sản phẩm thuê gia công
Trường hợp Công ty có dự án đầu tư được hưởng ưu đãi thuế TNDN theo địa bàn Khu Công nghiệp (KCN), trong quá trình sản xuất kinh doanh Công ty thuê doanh nghiệp khác gia công sản phẩm của đơn vị (các doanh nghiệp này không thuộc địa bàn ưu đãi đầu tư) khi nhập sản phẩm thuê gia công về kho của Công ty để tiếp tục quá trình sản xuất, sau đó xuất bán thành phẩm hoàn thiện thì khoản thu nhập này phát sinh trên địa bàn ưu đãi thuế (KCN) được hưởng ưu đãi thuế TNDN theo quy định nêu trên.
Hướng dẫn tại Công văn số 204/CTBNI-TTHT của Cục Thuế tỉnh Bắc Ninh ngày 9/2/2021.
- Hướng dẫn chính sách thuế chuyển dự án đầu tư khác tỉnh
Trường hợp Công ty di chuyển từ tỉnh Thái Nguyên về tỉnh Bắc Ninh để thực hiện dự án đầu tư mới tại Khu Công nghiệp (KCN) Quế Võ III, tỉnh Bắc Ninh theo Giấy Chứng nhận Đăng ký Đầu tư (IRC) lần đầu do Ban Quản lý các KCN Bắc Ninh cấp và Công ty thực hiện đúng các quy định đối với nhà đầu tư thực hiện dự án đầu tư mới (đảm bảo thực hiện về giá trị vốn đầu tư, chất lượng, giá trị máy móc thiết bị, dây chuyền công nghệ sau khi dặ án đầu tư đưa vào khai thác, vận hành), đồng thời đáp ứng đầy đủ các quy định về chế độ kế toán, hóa đơn, chứng từ, nộp thuế TNDN theo phương pháp kê khai thì thu nhập từ dự án này được hưởng ưu đãi thuế TNDN theo quy định tại Khoản 3 Điều 6 Nghị định số 218/2013/NĐ-CP.
Trường hợp Công ty thuê doanh nghiệp gia công sản phẩm của đơn vị (các doanh nghiệp này không thuộc địa bàn ưu đãi đầu tư) khi nhập sản phẩm thuê gia công về kho của Công ty để tiếp tục quá trình sản xuất, sau đó xuất bán thành phẩm hoàn thiện thì khoản thu nhập này phát sinh trên địa bàn ưu đãi thuế (KCN Quế Võ III) được hưởng ưu đãi thuế TNDN.
Hướng dẫn tại Công văn số 143/CTBNI-TTHT của Cục thuế tỉnh Bắc Ninh ngày 29/1/2021.
- Hướng dẫn thanh toán qua tài khoản vốn đầu tư trực tiếp bằng ngoại tệ
Trường hợp nhà đầu tư nước ngoài chuyển tiền cho cá nhân để chi tiêu cho việc thành lập doanh nghiệp và thanh toán thẳng cho các nhà cung cấp một số dịch vụ như cho thuê nhà xưởng mà không thực hiện thanh toán qua tài khoản vốn đầu tư trực tiếp bằng ngoại tệ theo hướng dẫn tại Thông tư số 06/2019/TT-NHNN, thì khoản tiền chi cho cá nhân và khoản thanh toán cho nhà cung cấp dịch vụ không được xác định là tiền góp vốn đầu tư.
Hướng dẫn tại Công văn số 162/CTBNI-TTHT của Cục thuế tỉnh Bắc Ninh ngày 3/2/2021.
- Hướng dẫn chính sách thuế TNCN đối với việc tặng quà
– Trường hợp Công ty nộp thuế GTGT theo phương pháp khấu trừ, có tặng quà cho nhân viên thì Công ty phải lập hóa đơn GTGT, ghi đầy đủ các chỉ tiêu và tính thuế GTGT như hóa đơn xuất bán hàng hóa, dịch vụ cho khách hàng.
– Trường hợp quà tặng mà nhân viên nhận được không phải là các tài sản phải đăng ký quyền sở hữu, quyền sử dụng theo quy định và không thuộc các khoản được quy định tại Khoản 10 Điều 2 Thông tư số 111/2013/TT-BTC thì không phải chịu thuế TNCN từ nhận quà tặng.
Hướng dẫn tại Công văn số 2844/CTBDU-TTHT của Cục thuế tỉnh Bình Dương ngày 19/2/2021.
- Hướng dẫn chính sách thuế trong trường hợp bị cơ quan hải quan ấn định
Trường hợp Công ty đã nộp số thuế GTGT bị cơ quan hải quan ấn định tại khâu nhập khẩu và không thuộc trường hợp bị xử phạt về gian lận, trốn thuế; khi nộp có chứng từ nộp thuế GTGT khâu nhập khẩu thì Công ty được kê khai, khấu trừ số thuế GTGT bị ấn định này nếu đáp ứng điều kiện Điều 15 Thông tư số 219/2013/TT-BTC và Khoản 10 Điều 1 Thông tư số 26/2015/TT-BTC.
Số thuế nhập khẩu theo quyết định ấn định của hải quan mà Công ty đã nộp được xác định là chi phí được trừ cho mục đích tính thuế TNDN.
Hướng dẫn tại Công văn số 1362/CTBDU-TTHT của Cục thuế tỉnh Bình Dương ngày 26/1/2021.
- Hướng dẫn chính sách thuế trong trường hợp khuôn mẫu của DN chế xuất cho DN nội địa thuê mượn
– Về thuế NK: Doanh nghiệp (DN) nội địa thuê, mượn khuôn mẫu của Doanh nghiệp Chế xuất (DNCX) theo hợp đồng thuê, mượn để phục vụ sản xuất thì DN nội địa không được miễn thuế NK theo Điểm a Khoản 9 Điều 16 Luật thuế XNK số 107/2016/QH13. DN nội địa phải kê khai nộp thuế NK khi tạm nhập và không thuộc các trường hợp được hoàn thuế NK khi tái xuất theo Điểm đ Khoản 1 Điều 19 Luật thuế XNK 107/2016/QH13 do là trường hợp đi thuê, mượn.
– Về thuế GTGT: DN nội địa đã đăng ký tờ khai theo loại hình tạm nhập thì không thuộc đối tượng chịu thuế GTGT.
Trường hợp đã hết thời hạn cho thuê nhưng DN nội địa tiếp tục sử dụng, không tái xuất thì DN nội địa phải kê khai, nộp thuế GTGT.
Trường hợp trong quá trình sử dụng khuôn mẫu bị hư hỏng không thể tái xuất, buộc phải tiêu hủy và đã thực hiện thủ tục tiêu hủy theo quy định thì DN nội địa không phải kê khai nộp thuế GTGT đối với số khuôn mẫu này.
Hướng dẫn tại Công văn số 475/TCHQ-TXNK của Tổng cục Hải quan ngày 1/2/2021.
- Hướng dẫn chính sách thuế đối với thuế nhập khẩu hàng tạm nhập tái xuất phục vụ dự án ODA
Đối với trường hợp máy móc, thiết bị, dụng cụ, phương tiện vận chuyển của các tổ chức, cá nhân được phép tạm nhập, tái xuất để thực hiện dự án đầu tư thuộc đối tượng không chịu thuế GTGT. Trường hợp hết thời hạn tạm nhập nhưng DN không tái xuất đối với số hàng hóa này thì phải kê khai nộp thuế GTGT theo quy định.
Hướng dẫn tại Công văn số 8210/TCHQ-TXNK của Tổng cục Hải quan ngày 31/12/2020.
Phạm Quốc Tuấn – Luật sư Trưởng
Công ty Luật TNHH DIMAC
Khi tham gia ký hợp đồng, các bên có vẻ rất yên tâm khi người ký hợp đồng là đại diện hợp pháp của đối tác. Tuy nhiên, thực tế có không ít trường hợp hợp đồng dù đã được ký bởi người đại diện theo pháp luật (“NĐDTPL”) nhưng vẫn có nguy cơ bị Tòa án tuyên vô hiệu. Việc hiểu đúng vấn đề thẩm quyền ký hợp đồng rất quan trọng, đặc biệt khi Luật Doanh nghiệp số 59/2020 (“LDN”) đã có hiệu lực kể từ ngày 1/1/2021.
Tại Công ty cổ phần Nam Sơn (“Nam Sơn”), ông Phạm Văn Thái[1] là Chủ tịch Hội đồng Quản trị (“Chủ tịch HĐQT”) đồng thời cũng là người đại diện theo pháp luật của công ty. Bà Vũ Kim Lan là Giám đốc, cũng được thể hiện trên Giấy CNĐKKD là người đại diện theo pháp luật. Tổng giá trị tài sản của Nam Sơn ghi trong báo cáo tài chính năm 2020 là 30 tỷ đồng.
Vào ngày 25/2/2021, Ông Thái đã đại diện Nam Sơn ký hợp đồng với Công ty TNHH Vũ Hoàng (“Vũ Hoàng”) để mua lô hàng trị giá 25 tỷ VNĐ. Vào ngày 5/3/2021, Vũ Hoàng đã giao đầy đủ và đúng lô hàng có chất lượng đảm bảo đến địa điểm thỏa thuận và Nam Sơn có nghĩa vụ thanh toán cho Vũ Hoàng trong vòng 10 ngày kể từ ngày nhận hàng. Tuy nhiên, sau khi nhận hóa đơn từ Vũ Hoàng, do nhu cầu không còn cần hàng nên Nam Sơn đã từ chối thanh toán. Lý do Nam Sơn đưa ra là hợp đồng đã bị vô hiệu do Ông Thái không có thẩm quyền ký hợp đồng và đề nghị trả lại số hàng đã nhận.
Ai là người có thẩm quyền ký hợp đồng với đối tác?
Theo Điều 12.1 LDN, người đại diện theo pháp luật của doanh nghiệp là cá nhân đại diện cho doanh nghiệp để thực hiện các quyền và nghĩa vụ phát sinh từ giao dịch của doanh nghiệp. Điều này được hiểu là LDN không tự trao trực tiếp quyền ký hợp đồng cho người đại diện theo pháp luật mà chỉ quy định thẩm quyền thực hiện các quyền và nghĩa vụ doanh nghiệp phải thực hiện từ giao dịch đã giao kết. Do đó, thẩm quyền giao kết hợp đồng của người đại diện công ty trong từng trường hợp sẽ phụ thuộc vào quyền hạn của họ được quy định tại Điều lệ và các quy định nội bộ liên quan, nếu có.
Trong vụ việc trên, các vấn đề liên quan đến công việc kinh doanh hàng ngày của Nam Sơn sẽ do Giám đốc quyết định, trừ trường hợp Điều lệ của Nam Sơn có quy định khác.[2] Vì vậy, Ông Thái, với vai trò Chủ tịch HĐQT và là một trong hai người đại diện theo pháp luật của Nam Sơn chỉ có thẩm quyền ký hợp đồng với Vũ Hoàng khi Điều lệ của Nam Sơn quy định rõ ông Thái được quyền làm việc này.[3] Như vậy, nếu Điều lệ Nam Sơn không quy định hoặc chỉ được phép ký ở mức giá trị hợp đồng thấp hơn thì Ông Thái sẽ không được quyền ký hợp đồng.
Chấp thuận nội bộ bắt buộc cần biết trong doanh nghiệp
Nhằm tránh tình trạng lạm dụng quyền hạn, LDN đã quy định một số giao dịch, hợp đồng cần phải có sự phê chuẩn, đồng ý của Đại hội đồng cổ đông (“ĐHĐCĐ”) hoặc Hội đồng Quản trị (“HĐQT”) đối với công ty cổ phần hoặc Hội đồng thành viên đối với công ty trách nhiệm hữu hạn.
Cụ thể, trong công ty cổ phần, cho các giao dịch giữa Công ty và các bên có liên quan,[4] (i) sẽ phải được sự chấp thuận trước bởi ĐHĐCĐ nếu các giao dịch này có giá trị bằng hoặc lớn hơn 35% tổng giá trị tài sản của doanh nghiệp ghi trong báo cáo tài chính gần nhất hoặc một tỷ lệ khác nhỏ hơn quy định tại Điều lệ Công ty; hoặc (ii) phải được sự chấp thuận bởi HĐQT cho các giao dịch còn lại. ĐHĐCĐ cũng phải phê chuẩn các hợp đồng, giao dịch vay, cho vay, bán tài sản có giá trị lớn hơn 10% tổng giá trị tài sản của doanh nghiệp ghi trong báo cáo tài chính gần nhất giữa công ty và cổ đông sở hữu từ 51% tổng số cổ phần có quyền biểu quyết trở lên hoặc người có liên quan của cổ đông đó.[5]
Ở các công ty TNHH, HĐTV có quyền thông qua các hợp đồng vay, cho vay, bán tài sản và hợp đồng khác do Điều lệ công ty quy định có giá trị từ 50% tổng giá trị tài sản trở lên được ghi trong báo cáo tài chính tại thời điểm công bố gần nhất của công ty hoặc một tỷ lệ hoặc giá trị khác nhỏ hơn quy định tại Điều lệ công ty.[6] Như vậy, trong những giao dịch này, dù người đại diện công ty có ký hợp đồng nhưng nếu chưa đáp ứng điều kiện trên đây thì giao dịch vẫn có thể bị xem là vô hiệu theo quyết định của Tòa án.[7]
Quay lại vụ việc, do giá trị giao dịch giữa Vũ Hoàng và Nam Sơn lớn hơn 35% tổng giá trị tài sản của Nam Sơn trong báo cáo tài chính năm 2020 nên giao dịch này phải có sự chấp thuận của ĐHĐCĐ của Nam Sơn trước khi ký. Thực tế là mặc dù ngày 20/2/2021, Nam Sơn cũng đã tổ chức họp ĐHĐCĐ nhưng số lượng cổ đông dự họp lần đầu chỉ chiếm 49% tổng số phiếu biểu quyết nên theo quy định,[8] cuộc họp này đã không đủ điều kiện để tổ chức. Như vậy, mặc dù quyền ký của Ông Thái giả sử đã được Điều lệ cho phép và có chấp thuận của ĐHĐCĐ về giao dịch nhưng hợp đồng giữa hai bên vẫn có thể bị Tòa án tuyên vô hiệu do việc tổ chức cuộc họp Đại hội đồng cổ đông không phù hợp với quy định hiện hành.
Cơ chế bảo vệ quyền lợi hợp pháp cho bên ngay tình
Doanh nghiệp khó có cơ hội để được tiếp cận với Điều lệ hay văn bản nội bộ phân quyền cho Chủ tịch HĐQT hay Giám đốc trong khi điều khả thi nhất là họ biết người ký có phải là NĐDTPL hay không. Vì vậy, dường như khá khó cho Vũ Hoàng có thể xác định Ông Thái hay bà Lan là người có đủ thẩm quyền ký hợp đồng. Như vậy, ngoài việc Vũ Hoàng phải yêu cầu Nam Sơn cung cấp Điều lệ thì LDN cũng dự liệu và quy định rằng nếu Nam Sơn có nhiều hơn một NĐDTPL nhưng trong Điều lệ không quy định rõ ràng về quyền và nghĩa vụ của các NĐDTPL này thì mỗi NĐDTPL đều là đại diện đủ thẩm quyền của doanh nghiệp trước bên thứ ba và tất cả NĐDTPL đều phải chịu trách nhiệm liên đới đối với thiệt hại gây ra cho doanh nghiệp, nếu có.[9]
Thực tế, việc xác định thẩm quyền của người đại diện doanh nghiệp trong việc ký hợp đồng phụ thuộc rất nhiều vào thiện chí giao kết hợp đồng, mức độ tiết lộ thông tin và sự cẩn trọng của mỗi bên. Trong khi đó, về nguyên tắc, hợp đồng được xác lập bởi những người không có thẩm quyền thì sẽ vô hiệu. Để bảo vệ cho các bên tham gia giao dịch, Điều 142.1 (b) BLDS 2015 quy định hợp đồng vẫn được xem có hiệu lực ràng buộc các bên mặc dù người đại diện ký kết hợp đồng không đúng thẩm quyền nếu có căn cứ về việc người đại diện có thẩm quyền biết mà không phản đối việc thực hiện hợp đồng trong một thời hạn hợp lý. Do vậy, nếu Nam Sơn đã có hành động tiếp nhận hàng hóa do Vũ Hoàng cung cấp, có văn bản do người có thẩm quyền ký để trao đổi về chất lượng hàng hóa với Vũ Hoàng, sử dụng hàng hóa vào hoạt động sản xuất, kinh doanh hay thanh toán một phần tiền hàng thì hợp đồng đã được giữa hai bên ký vẫn có hiệu lực pháp lý và Nam Sơn không có quyền trả lại hàng hóa.
Từ vụ việc thực tế trên đây, để đảm bảo tốt nhất quyền lợi cho các bên và tránh rủi ro phát sinh từ hợp đồng vô hiệu do người đại diện ký kết không có thẩm quyền, trước khi ký kết hợp đồng, doanh nghiệp cần phải tìm hiểu kỹ thẩm quyền của người ký, bổ sung điều khoản bảo đảm thẩm quyền giao kết vào hợp đồng và yêu cầu đối tác cung cấp Điều lệ và các văn bản chấp thuận nội bộ khác, nếu có, đặc biệt đối với các hợp đồng có giá trị lớn, có khả năng ký với những người liên quan hoặc Giấy ủy quyền hợp pháp nếu NĐDTPL không ký trực tiếp. Kiểm tra như vậy có thể mất thời gian cho hai bên, nhưng chắc chắn sẽ mang lại những lợi ích không nhỏ, ít nhất là sẽ đảm bảo hợp đồng sẽ không bị vô hiệu từ nguyên nhân người ký.
[1] Tên thể hiện trong bài viết này chỉ mang tính minh họa để thể hiện nội dung, mà không phải là tên thật hay có ý định đề cập đến tên thật của công ty hay cá nhân nào. Trường hợp có trùng tên thì đó là sự ngẫu nhiên, mà không phải ý định của tác giả
[2] Điều 162.2 và Điều 162.4 LDN 2020
[3] Điều 12.2 LDN 2020
[4] Điều 167.1 LDN 2020
[5] Điều 167.3 LDN 2020
[6] Điều 55.2 (d) LDN 2020
[7] Điều 167.5 LDN 2020
[8] Điều 145.1 LDN 2020
[9] Điều 12.2 LDN 2020
Cám ơn Quý Anh/Chị đã tham gia Chương trình CFOConnEx New Year Party tại Lotte Hotel Sai gon vào ngày 23/03/2021 do CFO Việt Nam tổ chức với sự tài trợ của RSM Việt Nam. Như đã trao đổi, Văn phòng xin gửi file trình bày của Diễn giả, anh/chị vui lòng click vào link sau để tải về: https://www.cfo.vn/CFOVietnam-RSMVietnam_Tax-inspection-year-end-Tax-Finalization-2020.pdf
Các hình ảnh buổi chia sẻ và Gala cập nhật trên Group/ Fanpage của CFO Vietnam. Nếu anh/chị cần thông tin gì thêm, vui lòng liên lạc với CFO nhé.
(eFinance Online) – Bộ Tài chính vừa ban hành Thông tư số 19/2021/TT-BTC ngày 18/3/2021 hướng dẫn giao dịch điện tử trong lĩnh vực thuế, nhằm hướng dẫn chi tiết một số điều của Luật Quản lý thuế số 38 liên quan đến hồ sơ, thủ tục về giao dịch điện tử trong lĩnh vực thuế. Luật Quản lý thuế số 38 đã bổ sung đối tượng người nộp thuế (NNT) phải đăng ký thuế, khai thuế nộp thuế tại Việt Nam là các nhà cung cấp ở nước ngoài không có cơ sở thưởng trú tại Việt Nam, nhưng có hoạt động kinh doanh thương mại điện tử, kinh doanh dựa trên nền tảng số và các dịch vụ khác; đồng thời, ràng buộc trách nhiệm của các cơ quan, tổ chức, bộ, ngành có liên quan phải thực hiện giao dịch với cơ quan thuế bằng phương thức điện tử.
Thông tư gồm 5 chương, 49 điều, bám sát các nội dung quy định của Luật Quản lý thuế số 38, đảm bảo vừa đơn giản, dễ hiểu, vừa phù hợp với pháp luật có liên quan. Đồng thời, kế thừa các quy định đang thực hiện ổn định và không có vướng mắc tại Thông tư số 110/2015/TT-BTC; Thông tư số 66/2019/TT-BTC sửa đổi, bổ sung một số điều của Thông tư số 110/2015/TT-BTC về giao dịch điện tử trong lĩnh vực thuế.
Thông tư bổ sung quy định đối với người nộp thuế (NNT) là nhà cung cấp ở nước ngoài không có cơ sở thường trú tại Việt Nam có hoạt động kinh doanh thương mại điện tử, kinh doanh dựa trên nền tảng số và các dịch vụ khác với tổ chức, cá nhân ở Việt Nam thực hiện giao dịch điện tử trong lĩnh vực thuế với cơ quan thuế, thì được sử dụng mã xác thực giao dịch điện tử do hệ thống của cơ quan thuế, hoặc hệ thống của các cơ quan có liên quan đến giao dịch điện tử cấp gửi vào địa chỉ email đã đăng ký với cơ quan thuế, hoặc gửi qua APP do cơ quan thuế hướng dẫn.
NNT là tổ chức, cá nhân khai thay, nộp thuế thay cho tổ chức, cá nhân, nhà thầu nước ngoài thực hiện giao dịch điện tử trong lĩnh vực thuế với cơ quan thuế, thì tổ chức, cá nhân khai, nộp thuế thay sử dụng chứng thư số của tổ chức, cá nhân khai, nộp thuế thay để ký trên các chứng từ điện tử khi giao dịch với cơ quan thuế bằng phương thức điện tử.
Tổ chức cung ứng dịch vụ trung gian thanh toán và các cơ quan nhà nước khác khi thực hiện giao dịch điện tử theo quy định tại thông tư này phải sử dụng chữ ký số được ký bằng chứng thư số do tổ chức cung cấp dịch vụ chứng thực chữ ký số công cộng cấp, hoặc cơ quan nhà nước có thẩm quyền cấp, cơ quan nhà nước có thẩm quyền công nhận.
Về trách nhiệm của ngân hàng, cơ quan nhà nước có thẩm quyền trong giao dịch điện tử trong lĩnh vực thuế cũng như trách nhiệm của cơ quan thuế, thông tư bổ sung trách nhiệm của ngân hàng, tổ chức cung ứng dịch vụ trung gian thanh toán, các cơ quan nhà nước có thẩm quyền. Theo đó, ngoài việc phải thực hiện trách nhiệm theo quy định của Luật Quản lý thuế, các văn bản hướng dẫn liên quan, các đơn vị có trách nhiệm trao đổi, truyền, nhận thông tin đầy đủ, kịp thời, chính xác theo quy định tại nghị định hướng dẫn Luật Quản lý thuế số 38; khai thác và bảo mật thông tin của NNT do cơ quan thuế cung cấp bằng phương thức điện tử để sử dụng cho việc quản lý nhà nước, phối hợp thu ngân sách nhà nước (NSNN).
Đồng thời, thông tư cũng bổ sung trách nhiệm của cơ quan thuế trong tiếp nhận thông tin từ cơ quan nhà nước có thẩm quyền và trách nhiệm trong việc xây dựng hệ thống kết nối, trao đổi thông tin với cổng thông tin của cơ quan nhà nước có thẩm quyền.
Thông tư quy định cụ thể, chi tiết, rõ ràng trách nhiệm của NNT cũng như cơ quan nhà nước có thẩm quyền trong giao dịch điện tử trong lĩnh vực thuế. Một trong những điểm nhấn thông tư nêu rõ NNT được thực hiện các giao dịch điện tử trong lĩnh vực thuế 24 giờ trong ngày và 7 ngày trong tuần, bao gồm cả ngày nghỉ, ngày lễ và ngày tết.
NNT có thể lựa chọn các hình thức thực hiện giao dịch thuế điện tử qua hệ thống các cổng thông tin như: Thông qua Cổng thông tin điện tử của Tổng cục Thuế; thông qua Cổng thông tin điện tử của cơ quan nhà nước có thẩm quyền được kết nối với Cổng thông tin điện tử của Tổng cục Thuế. Ngoài các hình thức nêu trên, NNT có thể lựa chọn hình thức nộp thuế điện tử thông qua dịch vụ thanh toán điện tử của ngân hàng hoặc tổ chức cung ứng dịch vụ trung gian thanh toán.
Thông tư quy định, NNT thực hiện giao dịch điện tử trong lĩnh vực thuế phải đảm bảo các điều kiện sau: Có chứng thư số đang còn hiệu lực do tổ chức cung cấp dịch vụ chứng thực chữ ký số công cộng cấp hoặc cơ quan nhà nước có thẩm quyền cấp, cơ quan nhà nước có thẩm quyền công nhận, trừ một số trường hợp như NNT là cá nhân đã có mã số thuế chưa được cấp chứng thư số. NNT cần có khả năng truy cập và sử dụng mạng Internet, có địa chỉ thư điện tử, có số điện thoại di động (đối với cá nhân chưa được cấp chứng thư số) đã đăng ký sử dụng để giao dịch với cơ quan thuế…
TheLEADER_Năm 2021 là một năm với nhiều cơ hội đi kèm không ít thách thức mà Việt Nam cần tạo một bước ngoặt thay đổi với việc xoá bỏ các điểm nghẽn để thúc đẩy đổi mới sáng tạo trong tất cả lĩnh vực, ngành nghề.
Đổi mới sáng tạo cần thẩm thấu vào các ngành nghề, lĩnh vực
Với tư duy phát triển phải dựa trên khoa học – công nghệ và đổi mới sáng tạo, công tác chuyển đổi số cũng như đổi mới sáng tạo ở Việt Nam đã có nhiều chuyển biến khá nhanh trong thời gian gần đây.
Chuyên gia kinh tế Phạm Chi Lan nhận định, từ năm 2015, Việt Nam đã nói về chuyển đổi số nhưng mãi đến năm 2019 vẫn chuyển biến khá chậm. Tuy nhiên với nhu cầu cấp thiết trong bối cảnh của cuộc khủng hoảng do Covid-19 gây nên, năm 2020 đã chứng kiến một sự thay đổi rõ nét, trong cả bộ máy nhà nước cũng như xã hội và các doanh nghiệp. Trong cái khó ló cái khôn, sự chủ động để thích ứng, tiếp cận có thể thấy ở khắp mọi nơi.
Trong mùa Covid, sự tương tác giữa nhà nước và người dân, giữa trung ương và địa phương được thực hiện qua các nền tảng trực tuyến, bỏ bớt các cuộc họp liên miên, các chuyến công tác dài ngày, tiết kiệm được cả thời gian và ngân sách mà hiệu quả hơn nhiều. Chuyển đổi số cũng giúp nhiều doanh nghiệp thoát được cửa tử và sớm hồi phục trong bối cảnh bình thường mới.
Bà Lan cho rằng, có ba yếu tố quan trọng để Việt Nam có thể đẩy mạnh hơn nữa quá trình chuyển đổi số cũng như thúc đẩy đổi mới sáng tạo. Thứ nhất, Việt Nam có nguồn dân số trẻ, ham học, thích ứng dụng cái mới. Thứ hai, Việt Nam có hệ thống internet được sử dụng khá phổ cập với chi phí rẻ, tạo nền tảng tốt. Thứ ba là nhận thức mới của lãnh đạo nhà nước cũng như doanh nghiệp về tính cần thiết của chuyển đổi số và đổi mới sáng tạo.
Tuy nhiên, chuyên gia kinh tế Cấn Văn Lực nhìn nhận, Việt Nam đáng lẽ ra có thể làm tốt hơn nếu có được khung pháp lý cho câu chuyện phát triển kinh tế số cũng như ưu tiên đẩy mạnh hơn nữa việc hoàn thiện cơ sở dữ liệu vốn đã được manh nha triển khai từ 2015 đến nay.
Bên cạnh đó, ông Lực cho rằng, các nhà điều hành, làm chính sách và doanh nghiệp cần tìm được một điểm cân bằng tối ưu nhất vì một mặt muốn cởi mở cho đổi mới sáng tạo nhưng một mặt lại lo kiểm soát rủi ro thì khó phát triển.
“Tranh cãi nhiều mãi không có chính sách mà những trường hợp như Uber, Grab là điển hình trong việc không tìm được cân bằng về chính sách”, ông Lực nói.
Một yếu tố khác không kém phần quan trọng được ông Lực nhấn mạnh là việc nâng cao nhận thức, ý thức của doanh nghiệp và người dân vì đó là các chủ thể tham gia rất quan trọng trong quá trình chuyển đổi số, đổi mới sáng tạo.
“Hiện nay, nhân sự số, tài năng số cực khan hiếm ở Việt Nam vì cạnh tranh vô cùng khốc liệt, việc tuyển dụng các đối tượng này vô cùng khó khăn, tự đào tạo tự cung cấp tự cung ứng. Một số trường mở khoa này khoa kia nhưng chưa có sự quyết liệt. Chuyện nhân sự số rất quan trọng trong thời gian tới”, ông Lực nhận định.
Trong khi đó, ông Nguyễn Thắng, Giám đốc Trung tâm Phân tích và dự báo thuộc Viện Hàn lâm khoa học xã hội Việt Nam nhận định, chuyển đổi số dù diễn ra nhanh nhưng còn những điểm nghẽn liên quan đến thể chế cản trở nền kinh tế mới cũng như cản trở việc ứng dụng công nghệ vào nền kinh tế truyền thống.
Chuyển đổi số trên thực tế cũng có thể xem là cuộc chạy đua giữa công nghệ số và kỹ năng trong thế kỷ 21. Những kỹ năng xưa cũ khi con người còn làm việc như một cái máy ngày càng mai một, xã hội mới cần những nhân lực có khả năng suy luận, kỹ năng giải quyết vấn đề, các kỹ năng mềm và kỹ năng số. Nhân lực còn chưa đáp ứng được yêu cầu khiến quá trình chuyển đổi số, đổi mới sáng tạo không thấm thấu được vào các lĩnh vực, ngành nghề.
Cần quyết liệt thay đổi
Nhận định về những cơ hội và thách thức đối với kinh tế Việt Nam trong năm 2021, bà Lan cho rằng đây là một năm mà Việt Nam cần tạo một bước ngoặt thay đổi.
Chuyên gia kinh tế Phạm Chi Lan
“Không thể không thay đổi được nữa, tôi khá sốt ruột, chúng ta có 10 năm trời thực hiện ba đột phá chiến lược nhưng 10 năm qua chưa tạo được sự đột phá đó. Nếu không thay đổi mạnh mẽ quyết liệt thì không thể đạt được chiến lược 10 năm tới”, bà Lan nói.
Với số phận từng doanh nghiệp, bà Lan cho rằng trong thời đại cạnh tranh quy mô toàn cầu, đừng gọi thị trường Việt Nam là thị trường nội địa bởi Việt Nam cũng là một thị trường quốc tế nơi mà các doanh nghiệp Việt phải chuyển mình để cạnh tranh với các doanh nghiệp đến từ các quốc gia khác nhau trên thế giới.
Với từng cá nhân, thời đại số đòi hỏi những kỹ năng mới, muốn giữ được công ăn việc làm, muốn tăng thu nhập và có công việc tốt hơn thì phải phát triển bằng cách học tập liên tục để có thể thích ứng với thời cuộc.
“Nếu không thấy sự cần thiết phải thay đổi sớm, vẫn làm như cũ, mỗi năm tăng vài phần trăm GDP, khoe thành tích, coi mình là nhất nhì thế giới thì vận mệnh lâu dài sẽ khó khăn, từng người dân cũng khó đạt được khát vọng đang đặt ra”, bà Lan nhận định.
Có cùng quan điểm với ông Thắng, bà Lan cho rằng, động lực cho đổi mới sáng tạo không chỉ trong chuyển đổi số mà trong nhiều lĩnh vực. Chuyển đổi số phải thấm vào các ngành, các lĩnh vực mà số 1 phải là giáo dục để nhân lực tương lai có kỹ năng mới trong thời đại mới. Động lực mới phải là nội lực của Việt Nam chứ không chỉ dựa mãi vào bên ngoài.
CFO Vietnam New Year Party – đã diễn ra vào ngày 23/03/2021 tại Khách sạn Lotte, CFO Việt Nam đã tổ chức buổi Gặp mặt Tân niên Tân Sửu 2021 và Chia sẻ kinh nghiệm trong công tác thanh kiểm tra & Quyết toán thuế 2020
Buổi Giao lưu chia sẻ đã diễn ra trong không khí vui vẻ đầm ấm, bên cạnh việc duy trì việc gặp gỡ giao lưu thắt chặt tình đoàn kết, buổi gặp mặt cũng là dịp để các Thành viên cùng trao đổi những kinh nghiệm trong nghề tài chính của mình.
Trải qua chặng đường hơn 12 năm hoạt động của CFO Việt Nam với những thành tựu đáng tự hào, qua đó Ban lãnh đạo cũng đã dành sự tri ân trân trọng đến Anh /Chi đã có những đóng góp tích cực vào sự phát triển của Câu lạc bộ.
Buổi Buổi Giao lưu chia sẻ đã mang đến cho các Thành viên một khoảng thời gian thực sự thư giãn.
-
Bùi Thu Hòa
Hội viênBà Bùi Thu Hòa hiện là Kế toán trưởng tại Công ty TNHH Du lịch Lửa Việt –...
Chi tiết -
Henry Nguyễn
Hội viên tổ chứcÔng Henry Nguyễn có hơn 12 năm kinh nghiệm tư vấn giải pháp quản trị doanh nghiệp...
Chi tiết -
Nguyễn Hữu Lê Minh
Hội viên tổ chứcBà Nguyễn Hữu Lê Minh hiện là Country Manager của Teibto – Công ty chuyên cung cấp...
Chi tiết -
Nguyễn Việt Hùng
• Ông là thành viên Hội đồng Thành Viên/Ban Quản Trị của Công ty TNHH Bbraun...
Chi tiết -
Lê Thị Liên
Hội viênBà Lê Thị Liên hiện là Phó Tổng giám đốc phụ trách nội chính kiêm Giám đốc...
Chi tiết -
Trương Thị Thu Lan
Hội viênBà Trương Thị Thu Lan là Quản lý cấp cao bộ phận dịch vụ Kế toán khu...
Chi tiết -
Phan Thị Ánh Nguyệt
Hội viênBà Phan Thị Ánh Nguyệt hiện là Giám đốc tài chính tại Công ty Cổ phần tập...
Chi tiết -
Vương Nguyễn Đăng Khoa
Hội viênÔng Vương Nguyễn Đăng Khoa có 14 năm kinh nghiệm trong lĩnh vực tài chính, kế...
Chi tiết -
Đinh Thị Thuý Hà
Hội viênBà Đinh Thị Thuý Hà hiện đang là Trưởng ban Tài chính kế toán tại Công ty CMC...
Chi tiết